7 Vien Ngoc Rong Thoi Trantạp Chí Đàn Ông Online

1.

Bạn đang xem: 7 vien ngoc rong thoi trantạp chí đàn ông online

Nhờ vào bản lĩnh độc lập tự cường phối hợp truyền thống chống ngoại xâm, kể cả chống về mặt tứ tưởng, cùng tính uyển chuyển, linh động của dân cư lúa nước phương Nam nên bất cứ một học thuyết nào từ quốc tế một khi đã vào Việt phái nam đều phải phục vụ mang đến cái đạo yêu nước yêu dân của dân tộc, phục vụ phần đa yêu cầu cuộc sống của dân tộc.


*

Chùa Một Cột được thi công từ thời Lý (1049)

Phật giáo lúc vào Việt phái nam cũng chịu sự chi phối của quy luật đó. Với tinh thần phá chấp triệt để và khả năng dung hợp rộng mở, với tính phóng khoáng và dân chủ của mình, Phật giáo Thiền tông đã bắt gặp tinh thần bình đẳng, dân chủ, lòng nhân ái của người dân ở đây cần nó đã tiện lợi hòa hợp với bắt rễ cấp tốc chóng, sẽ ảnh hưởng sâu rộng vào đòi sống con người việt Nam. Mặt khác, Phật giáo Thiền tông khi vào Việt nam giới đã biết kết hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa, dung hòa hợp với các hệ bốn tưởng khác, nhưng mà chủ yếu là Nho cùng Lão - Trang thuộc Đạo giáo, kết hợp với các tông phái khác (Tịnh độ tông, Mật tông) phải Phật giáo Thiền tông Việt nam giới thời Lý - Trần có những nét khác nếu như so với Thiền học Ấn Độ, Thiền học tập Trung Quốc.Qua sử liệu, ta có thể khẳng định Phật giáo truyền vào Việt phái nam bằng hai bé đường: Một là, nhỏ đường biển từ phương phái mạnh Ấn Độ trực tiếp truyền sang; hai là, nhỏ đường bộ từ phương Bắc truyền xuống. Bằng nhỏ đường biển từ phương Nam, Phật giáo truyền vào Việt nam giới rất sớm và sớm hơn bằng nhỏ đường bộ từ phương Bắc truyền xuống. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Lang vào Phật giáo Việt phái mạnh sử luận, tập 1, thì hồi ấy, các tu sĩ đi theo thuyền buôn Ấn Độ là những người đầu tiên truyền đạo Phật vào nước ta với tín ngưỡng đơn sơ: thờ Phật, đốt trầm, tụng kinh, chữa bệnh, trừ tà và bày phép cúng dường, bố thí đến dân bản địa cùng truyền pháp Tam quy Ngũ giới cho cư dân ở trên đây chứ chưa có sự truyền giảng gớm điển gì (1).Tiếp theo, Phật giáo với hệ thống khiếp điển đại thừa sở hữu tính Thiền học của Phật giáo vùng nam Ấn đã truyền vào Việt nam giới . Cũng theo Nguyễn Lang và các nhà nghiên cứu Phật giáo sử thì nam Ấn là vùng đầu tiên dùng kinh văn hệ Bát nhã (Prajna) như Kim Cương, Tượng đầu tịnh xá, Bát thiên tụng Bát nhã, Bát nhã trọng điểm kinh, Bát nhã tía la mật, Đại bát Niết bàn v.v… Chẳng hạn, khiếp Kim cưng cửng là một cuốn gớm Đại thừa Phật giáo thuộc gớm văn hệ Bát nhã phổ biến và có vị trí quan liêu trọng vào Phật giáo, vào Thiền giới Trung Quốc, Việt Nam. Nhờ bộ kinh này mà Lục tổ Huệ Năng ở Trung Quốc, nhà vua - thiền sư Trần Thái Tông ở Việt Nam đang đắc pháp, ngộ đạo lúc đọc đến câu Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ trung tâm mà Huệ Năng có ghi lại vào Pháp bảo đàn gớm và nai lưng Thái Tông có viết trong Thiền tông chỉ nam giới tự. Nhờ hệ thống tởm văn hệ Bát nhã mà thế kỷ thứ II sau Công nguyên, Long Thọ Bồ Tát (Nagarjãna) đã viết bộ Trung Quán luận nổi tiếng với tư tưởng Vô trụ, siêu việt hữu vô, Chân không. Bộ luận này đã có ảnh hưởng sâu rộng vào Thiền giới ở Trung Quốc cùng Việt Nam. Bốn tưởng Chân không của bộ luận cũng chính là chủ đề của bộ tởm Bát thiên tụng Bát nhã mà Khương Tăng Hội đã dịch ở việt nam vào thế kỷ thứ III. Các nhà nghiên cứu còn cho rằng đây là bộ kinh văn hệ Bát nhã xuất hiện xưa nhất ở Việt nam (2).Tư tưởng Phật giáo Đại thừa ở Việt nam cũng đã có trước đó với tác phẩm Lý hoặc luận của Mâu bác ở thế kỷ thứ II. Tiếp đến là một loạt tác phẩm dịch, chú sớ, đề tựa của nhiều nhà Phật học đều là những bộ khiếp thuộc hệ thống Thiền học Đại thừa như An ban thủ ý gớm bàn về phép thiền quán sổ tức (phép đếm tương đối thở) vì Khương Tăng Hội dịch, chú sớ; Pháp hoa tam muội kinh bởi Cương Lương lâu Chí và Đạo Thanh dịch. Bấy nhiêu cũng đủ khẳng định ở thời kỳ đầu, Phật giáo truyền vào nước ta chủ yếu là Phật giáo Đại thừa với khuynh hướng Thiền học và gớm điển chủ yếu là khiếp văn hệ Bát nhã xuất hiện ở nam Ấn. Để đến thế kỷ thứ IV, V tại Giao Châu, Thiền học Đại thừa cũng đã được phát triển với các bậc danh tăng như Huệ Thắng, Đạo Thiền… và các vị này còn truyền bá Thiền học Đại thừa thanh lịch tận Trung Quốc, trước lúc tổ Tỳ Ni Đa Lưu đưa ra sang Việt nam truyền dòng Thiền đầu tiên.Từ khi ngài Tỳ Ni Đa Lưu chi đem dòng Thiền của mình truyền thanh lịch nước ta vào thế kỷ thứ VI, thì Phật giáo Việt nam bấy giờ lại có thêm một mối chia sẻ - tiếp trở thành khác đó là Phật giáo Thiền tông từ Ấn Độ thanh lịch Trung Quốc rồi truyền đến Việt nam với hệ thống gớm Đại thừa thuộc văn hệ Bát nhã nhấn mạnh bốn tưởng Vô trụ, siêu việt hữu vô. Mặc dù Tỳ Ni Đa Lưu chi đắc pháp với tổ thứ 3 Tăng Xán của dòng Thiền Bồ Đề Đạt Ma ở Trung Quốc nhưng mà Tỳ Ni Đa Lưu chi lại ít chịu ảnh hưởng Thiền học của thầy mình mà lại chịu ảnh hưởng Phật giáo Thiền nghỉ ngơi Ấn Độ bấy giờ. Lúc này, Phật giáo Mật tông Ấn Độ và Tây Tạng đã phát triển mạnh. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Lang thì Mật giáo (Mật tông) là giai đoạn phát triển thứ bố của lịch sử Phật giáo Đại thừa Ấn Độ (giai đoạn thứ nhất là Bát nhã, giai đoạn thứ nhì là Duy thức). Giáo lý và thực hành của Mật tông có nét gần gũi tương đồng với Thiền tông như nhấn mạnh sự quan lại trọng của tọa thiền, trực cảm trung tâm linh, sử dụng những thoại đầu, công án với những hình ảnh cụ thể, dùng những mật ngữ để khai mở trí tuệ giác ngộ, sử dụng thần chú ấn quyết … để hỗ trợ đắc lực đến sự Thiền quán hành đạo. Vì thế mà Phật giáo Mật tông đã bao trùm mọi tín ngưỡng bình dân trong lòng nó tại Ấn Độ cũng như ở vn (Giao Châu) lúc bấy giờ. Riêng ở ta, khuynh hướng này rất phù hợp với tín ngưỡng dân gian thờ phúc thần, nhiên thần, thờ Mẫu, tín ngưỡng vật linh…, đồng thời phù hợp với phong tục của người Việt đề nghị nó trở thành một yếu tố khá quan liêu trọng vào sinh hoạt Thiền môn (3).Sang thế kỷ thứ IX, Phật giáo Việt phái nam còn có thêm một mối gặp mặt - tiếp biến đổi khác là Thiền tông Trung Quốc truyền thanh lịch với dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Thiền phái này với đậm dấu ấn Thiền học china với tư tưởng chân lý ở tức thì trong lòng mình, Phật tại tâm. Chân lý đó nhỏ người có thể tu chứng trực tiếp, chứ không cần nắm bắt qua ngôn ngữ, văn tự. Thiền phái Vô Ngôn Thông chủ trương bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật. Đó chính là pháp môn Đốn ngộ mà Lục tổ Huệ Năng đã đề ra trước đó. Sau này, tổ Bách Trượng cũng đã phát biểu: vai trung phong địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu (Nếu đất trung ương trống không, thì mặt trời trí tuệ sẽ tự chiếu sáng).Tóm lại, Phật giáo Việt phái mạnh thời Lý - Trần được kế thừa và phát triển trên cơ sở của cha mối gặp mặt - tiếp biến chuyển bởi có 3 nguồn du nhập trước đó:Một là, Phật giáo Đại thừa với khuynh hướng Thiền học từ phái nam Ấn trực tiếp truyền lịch sự bằng đường biển vào cuối thế kỷ thứ I trước công nguyên, cũng rất có thể là vào những năm đầu sau công nguyên với ghê văn hệ Bát nhã;Hai là, Thiền tông Ấn Độ truyền thanh lịch Trung Quốc rồi đến Việt Nam vày vai trò của ngài Tỳ Ni Đa Lưu chi vào thế kỷ thứ VI với tư tưởng vô trụ, rất việt hữu - vô;Ba là, Thiền tông Trung Quốc truyền vào Việt Nam vì vai trò của ngài Vô Ngôn Thông vào thế kỷ thứ IX với pháp môn Đốn ngộ và bốn tưởng Phật tại tâm.2. Phật giáo Việt phái nam thời Lý – trần với tinh thần tùy tục, tùy duyên, hòa quang quẻ đồng trần, cư trằn lạc đạo, nhập thế hành đạo bắt buộc đã sản hình thành những thiền sư luôn luôn hướng về cuộc sống, hoà nhập với cuộc đời. Điều này còn cắt nghĩa tại sao ở ta thời nào cũng có những vị thiền sư tận tuỵ quyết tử cho đất nước, cho dân tộc và nhiều ngôi chùa lại thờ các vị anh hùng cứu nước, hero văn hóa.Phật giáo Thiền tông Việt phái mạnh được thành lập gồm tổ chức hệ thống trước hết phải kể đến mẫu thiền nam giới Phương (Tỳ Ni Đa lưu giữ Chi) ở miếu Pháp Vân và sau đó thuộc dòng Quán Bích (Vô Ngôn Thông) ở miếu Kiến Sơ. Hai loại thiền này đã phát triển mang lại đỉnh cao sinh hoạt thời Lý - Trần với những thương hiệu tuổi của các vị thiền sư có công trạng to lớn đối với dân tộc vào buổi đầu đất nước phục hưng như: Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Minh Không, Khanh Hỷ, Diệu Nhân… dòng phái mạnh Phương; sườn Việt, Viên Chiếu, Thông Biện (tức Trí Không), Mãn Giác, Ngộ Ấn… dòng Quán Bích. Thực sự và sử sách xưa hồ hết ghi như thế, nhưng mà không hiểu nguyên nhân ông Nguyễn Duy Hinh lại đến rằng: “cả nhì phái Thiền của Tỳ Ni Đa lưu Chi, cũng như Vô Ngôn Thông đều với tính chất tiêu cực thoát ly cuộc sống một cách rõ rệt: Từ bỏ gia đình, xã hội, vào núi vào chùa ngồi Thiền định để tìm con đường giải thoát đến bản thân.” (4) (NCL in đậm để dìm mạnh). Có lẽ lúc viết đa số dòng chữ trên, ông Nguyễn Duy Hinh muốn đề cao ý nghĩa nhập thế của mẫu Thiền Trúc Lâm phải đã hạ thấp vai trò của những thiền sư thuộc nhì dòng Thiền này chăng? các nhà nghiên cứu đã thừa nhận cái Thiền Trúc Lâm là một bước nhảy vọt của tư tưởng Phật giáo Việt Nam, đã có nhiều đóng góp lớn mang lại văn hoá dân tộc, đã là một dòng Thiền độc đáo sở hữu đậm bản sắc dân tộc với hệ thống tổ chức và tởm điển như của một tôn giáo riêng rẽ biệt. Ở đây, Nguyễn Duy Hinh đã quên rằng đệ tử của loại Nam Phương với Quán Bích hầu hết có những vị thiền sư vào vai trò tích cực, nhập thế, có nhiều đóng góp lớn đến dân tộc vào buổi đầu phục hưng. Những vị sư đã mở trường dạy học đào luyện nhân tài mang lại đất nước, có vị đại diện triều đình tiếp sứ thần nhà Tống như khung Việt, Pháp Thuận, có vị đã hiến kế giúp vua đuổi Tống, bình Chiêm như Vạn Hạnh và còn tương đối nhiều việc làm tích cực khác nữa của những vị mà sử sách xưa bao gồm chép lại.Thật khó mà tìm hiểu tứ tưởng triết lý của nhì dòng Thiền trên một cách có hệ thống, vị các vị hầu như trước tác rất ít, hoặc có trước tác nhưng do chiến tranh, thiên tai yêu cầu đã thất truyền! rộng nữa, Thiền đạo vốn chủ trương “bất lập văn tự”, xem văn tự chỉ là phương tiện để đạt đến cứu cánh. Chú ý “không lập văn tự” chứ không phải “không dùng văn tự”. Một số nhà nghiên cứu nhầm lẫn chỗ này cần đã cho rằng các thiền sư Lý - Trần đã viết sách tức là đi ngược lại với yếu chỉ Thiền truyền thống, rồi coi đó là nét đặc thù dân tộc vào Thiền học tập Lý - Trần (5). Có vị lại ko nói (vô ngôn), sư Tịnh Giới còn ra đi hơn:“Khan tiếu thiền gia ham độn khách, Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm?”(Đáng bi ai cười cho số đông kẻ gàn trong thôn Thiền, Cớ sao lại đem ngữ điệu để “truyền tâm” đến người?) (6)Có nghĩa là đang xem thường ngôn ngữ. Thật là “vô ngôn” tuyệt đối! Vì Thiền vốn theo phương pháp trọng tâm truyền. Dù sao qua một số bài văn, bài kệ còn lại, ta có thể nói rằng, cũng như Thiền tông truyền thống, chú trọng Thiền định, nhờ Thiền định mới có thể tiếp cận được chân lý, mới giải thoát, cùng với pháp môn Đốn ngộ và chủ trương “trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật, giáo ngoại biệt truyền”. Phật đạo đã cho rằng tất cả hiện thực của thế giới khách quan là lâm thời bợ, hỏng ảo, không có thật như nó vốn có. Lúc bàn về bản thể, nguồn gốc sinh tử, nguồn gốc vạn sự vạn vật, những vị phân tích và lý giải theo quan điểm nhất nguyên, với quan niệm “tâm pháp tuyệt nhất như”, “vạn trang bị nhất thể” như Giác Tính Hải Chiếu Thiền sư viết trong bài bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng tô (Thanh Hoá): “Vạn là sự tung rã của nhất, nhất là nguồn gốc của vạn (…) ôm cái nhất để thâu tóm cái vạn” (7). Đại Xả thì đến rằng vạn vật, con fan gốc ở tứ đại hợp lại và vì chưng ngũ uẩn nhưng mà duyên thành, tuy thế thật ra vốn là lỗi không, cần thiết truy tra cứu nguồn gốc: “Tứ xà đồng kiệp bản nguyên không, Ngũ uẩn sơn cao diệc bất tòng.” (8) (Đất nước gió lửa cùng chung trong hộp vốn là hỏng không, Năm yếu tố tuy như núi cao tuy vậy cũng chẳng tất cả nguồn gốc); ngôi trường Nguyên thì nói nó “Đình độc vạn vật, Dữ đồ gia dụng vi xuân.” (9) (Sinh ra muôn vật, cùng trường tồn với muôn vật). Các vị cũng bàn đến lẽ sinh tử và coi đó là chuyện sinh hoá của chư pháp, là lẽ tự nhiên của tuần hoàn.Nhiều khi, các thiền sư Lý - Trần đang tiếp thu bốn tưởng Phật học tập rồi kiến giải đạo lý theo chỗ tỏ ngộ của mình. Có vị đã đề ra thuyết lý với những lý giải mới, theo yêu thương cầu dân tộc như thuyết “Tâm pháp nhất như” của Cứu Chỉ, thuyết “Tam ban” của Ngộ Ấn v.v.. Dĩ nhiên, chúng ta không đòi hỏi nhiều ở các vị phải đảo lộn hoặc phá bỏ nguyên lý Thiền truyền thống, hoặc cải cách Thiền học mà vấn đề là xét coi các thiền sư thời ấy đã áp dụng Thiền học vào hoàn cảnh hiện tại của đất nước như thế nào. Một điểm đáng chú ý nữa là các vị thiền sư Lý - Trần đã tóm thâu những tư tưởng uyên áo cùng uẩn súc của Thiền đạo bằng một vài câu ngắn gọn đầy hình ảnh thi ca diễm lệ. Đây là một hình thức mềm dẻo, nói bóng gió, dùng hình thức ngụ ngôn hoặc tỉ dụ để dẫn dắt người học đạo dễ tiếp thu chân lý. Các bài kệ đó đã được thi vị hoá, nhiều lúc nếu tách riêng ra, người ta sẽ nhầm là thơ chứ không phải kệ. Rất nhiều bài kệ mà sách Thiền uyển tập anh ngữ lục đã chép lại có giá trị văn học, giàu hình ảnh, đầy chất thơ, hơn là tính triết lý thô khan, đúng như ông Kiều Thu Hoạch vẫn khẳng định: “Thiền sư Lý Trần tỏ ra rất sở trường trong việc hình tượng hoá giáo lý Phật giáo” (10). Đây cũng là một vào những nét đặc thù của Phật giáo Thiền tông thời Lý - Trần.Khác với Thiền tông Ấn Độ với Trung Quốc, Phật giáo nước ta đã kết hợp cùng với tín ngưỡng bản địa, với yếu tố thần thuật của Đạo giáo pháp thuật bắt buộc mới có câu chuyện những thiền sư tiên đoán việc xã tắc như Vạn Hạnh, dùng pháp thuật để chữa bệnh trừ tà, để giáng long phục hổ, hay cất cánh trên không, đi dưới nước như Nguyễn Minh Không; để trả thù mang lại cha, giỏi để đầu thai như Từ Đạo Hạnh v.v.. Phật giáo thời Lý - Trần đã kết hợp với Mật tông. Hồi ấy có nhiều thiền sư đọc chú, tu luyện các phép Tổng trì Đà La Ni của Mật tông. Mật tông được truyền vào nước ta sớm nhất là vào khoảng nửa cuối thế kỷ X cơ mà chứng cớ là các cột ghê Đà La Ni tìm thấy ở Hoa Lư (Ninh Bình) (11). Mật tông thường pha trộn với tín ngưỡng cổ truyền Việt Nam; đồng hoá những phương thuật của Đạo giáo pháp thuật, rồi tác động trong quần chúng bằng phép chữa bệnh trừ tà. Phật giáo Thiền tông thời Lý - Trần còn kết hợp với Tịnh độ tông. Qua tín ngưỡng của quần chúng. # bấy giờ, Tịnh độ tông đi vào quần chúng bằng con phố thuyết giáo từ bi, cứu khổ, cứu nạn, bằng phương pháp dựng lên một cõi Tịnh độ, tây phương cực lạc mà nơi đó có Phật A Di Đà sẵn sàng tiếp đón những người lúc sống trên trần thế đã hành thiện tu phúc, niệm Phật, trai giới, cầu vãng sinh. Tịnh Độ tông còn dựng lên hình ảnh vị Bồ tát đắc đạo nhưng lại vì yêu mến xót chúng sinh khổ não đề xuất ở lại trần thế cứu vớt họ. Hình tượng vị Bồ tát này chúng ta thường gặp trong văn học dân gian: Phật bà Quán Thế Âm, tiêu biểu mang lại sức mạnh kỳ diệu và tình yêu quý bao la. Ko phải ngẫu nhiên mà Thiền phái Thảo Đường đời Lý đã xây dựng chùa Một Cột (bên cạnh chùa Diên Hựu) với mái chùa cong vút, chạm hoa sen nghìn cánh, vào đó lại thờ đức Quán Thế Âm. Dù việc này được vua Lý Thánh Tông mang lại xây dựng bên trên cơ sở giấc mộng của bà bầu là bà xã Mai Thị. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Khoá hư lục được Trần Thái Tông biên soạn để tín đồ đọc tụng 6 lần vào một ngày đêm để giữ đến 6 căn (nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý) được thanh tịnh (Lục thời sám hối khoa nghi) cũng chỉ vì Tịnh độ tông chủ trương trì khiếp niệm Phật để giữ trung ương được lặng lẽ thanh tịnh; để sám hối tội căn kiếp trước và để rửa sạch tội lỗi hàng ngày mắc phải.3. Nói bản sắc dân tộc của Phật giáo thời Lý - Trần không thể ko xét đến hai chiếc Thiền riêng rẽ của Đại Việt là Thảo Đường và Trúc Lâm lặng Tử.a. Thiền phái Thảo ĐườngDo âm hưởng của hào khí vừa chiến thắng giặc ngoài, vì chưng điều kiện đất nước được phục hưng, vày muốn xây dựng một ý thức hệ độc lập để tương xứng với một đất nước độc lập về chính trị, gớm tế, quân sự, mà ý thức hệ ấy không thể nào khác rộng là Phật giáo Thiền tông sẽ thịnh hành và phổ biến vào nhân dân, bắt buộc vua Thánh Tông nhà Lý mới xây dựng một Thiền phái mới: phái Thảo Đường mà chùa Một Cột là hội chứng tích văn hóa tiêu biểu hiện tại còn. Theo An nam chí lược, Thiền uyển tập anh ngữ lục và sau này các sách của Trần Văn Giáp: Les Boudhisme en Annam des origines au XIII e siecle (1932), của Mật Thể: việt nam Phật giáo sử lược (1941) gồm nêu lại, thì Thiền phái Thảo Đường bởi vì vua Lý Thánh Tông và Thiền sư Thảo Đường lập bắt buộc tại miếu Khai Quốc (Trấn Quốc), đế kinh Thăng Long.Khi Lý Thánh Tông rước quân chinh phạt Chiêm Thành, có bắt được một số tù binh, trong đó có một thiền sư người Trung Quốc, thuộc dòng Thiền Tuyết Đậu Minh Giác, đã cùng thầy truyền đạo ở Chiêm Thành, nhà vua giao cho quan Tăng lục làm nô tì. Một hôm vị Tăng lục đi vắng vào lúc sẽ viết dở cuốn Ngữ lục, sư Thảo Đường coi xong, có chữa lại, lúc Tăng lục trở về đọc, thấy vậy lấy làm lạ tâu lên vua. đơn vị vua hỏi về Phật pháp thì sư Thảo Đường ứng đối trôi chảy, nên mời làm Quốc sư. Ông là người dân có đức hạnh, đề xuất vua bái làm thầy, về sau sư ngồi yên mà tịch. Đó là chuyện sách xưa truyền lại. Sự thật không thể khẳng định được. Thiết nghĩ, cũng rất có thể nhà vua vẫn đặt ra mẩu chuyện trên để cho dòng Thiền của mình có gốc gác chăng? chiếc Thiền này truyền được 5 đời, gồm 18 người, tôn Lý Thánh Tông làm sư tổ khai sơn, và đa số chỉ truyền thừa trong giới quan lại lại trí thức của triều đình cơ mà thôi.Khó mà tìm hiểu triết lý phái Thảo Đường vì hiện ni tài liệu viết về Thiền phái này không có là bao. Thơ, văn, kệ của phái này hầu như ko còn lại gì. Chỉ biết Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư ghi rằng: Hoàng hậu Mai Thị nằm mộng thấy mặt trăng sa vào bụng, nhân đó có mang rồi xuất hiện Lý Thánh Tông. Khi làm vua Lý Thánh Tông ham mê mê nghiên cứu Phật học; nhân chuyện nằm mộng của mẹ, bên vua bắt đầu cho xây chùa Một Cột thờ đức Quán Thế Âm. Cuộc đời chính trị của nhà vua với chính sách khoan dân và nhân từ: sai lập chùa đền, giảm nhẹ hình phạt, không nên phát chăn chiếu mang đến tù nhân và cho ăn uống uống đầy đủ trong ngày đông giá rét, yêu mến dân như bé mình, sửa Văn Miếu, tô tượng Khổng Tử, mang đến hoàng tử học Nho học… Sử còn chép rằng, vợ ông tức Ỷ Lan vậy chồng cầm quyền nhiếp chính trị an lúc ông cầm quân đi chinh phân phát Chiêm Thành, đức độ của bà đã cảm hoá được nhân dân đề nghị được vinh danh là quan tiền Âm nữ.Về yếu đuối chỉ của chiếc Thiền này, trong bài văn Cảnh sách, sư Thảo Đường đã đặt ra quan điểm: Thiền bạn dạng vô môn, phi túc nạm linh căn, nhiều địa kỳ đồ, mạt đời dung lưu, thành nan ngộ nhập. Quán chổ chính giữa vi tế, như vô chén bát nhã bỏ ra tuệ, hãn năng giai chứng. Duy hữu niệm Phật duy nhất môn, về tối vi điệp cảnh. Từ bỏ cổ chí kim, dở người trí đồng tu, nam người vợ cộng thú, vạn vô độc nhất thất như tứ liệu mang sở minh. Chỉ yếu tự biện khẳng tâm, đồ nghi tự chi bất đắc. (12) (Tạm dịch: Thiền vốn không có cửa vào tuyệt nhất định, chưa phải người gồm đủ linh căn, thì hầu như rơi vào đường lầm lạc, trọn đời trôi nổi, khó khăn mà giác ngộ. Phép quán trung tâm thì khôn xiết tế nhị tinh vi, nếu không có trí tuệ chén nhã, ít hoàn toàn có thể đạt tới chứng nghiệm. Chỉ gồm lối niệm Phật là rất mau lẹ tiện lợi. Từ xưa mang đến nay, fan thông minh kẻ dại độn thuộc tu được, đàn ông bọn bà phần đông chuộng, muôn người không ai sai lầm như tứ lời đang tỏ rõ. Chỉ việc tự so sánh lấy tâm của mình, chớ có nghi vấn mình làm không được.)Chỉ bấy nhiêu đó, ta có thể suy luận tinh thần và tứ tường của mẫu Thiền Thảo Đường là sự kết hợp giữa Nho và Phật, giữa Thiền tông và Tịnh Độ tông (thiền tiệm gắn cùng với tụng niệm, nhờ vào tha lực, thờ Phật bà Quán Thế Âm). Thiền quán là con đường tự lực, đốn ngộ, phù hợp với trí thức, căn nguyên phát triển; còn tụng tởm niệm Phật là tuyến đường tha lực, tương xứng với tín đồ bình dân, ít căn cơ. Chính vì thế mà Lý Thánh Tông cùng những triều thần cố gắng vun đắp cho loại Thiền này.

Xem thêm: Cách Có Lượt Theo Dõi Trên Facebook 2021, 9 Cách Tăng Lượt Theo Dõi Trên Facebook

Như thế, so với Thiền nguyên thuỷ và Thiền Việt nam trước đó thì cái Thiền Thảo Đường có khác, nội dung phần nào phù hợp với yêu thương cầu của dân tộc bấy giờ.b. Thiền Phái Trúc Lâm im TửNối tiếp việc làm của vua nhà Lý, các vua nhà Trần cũng vì yêu thương cầu của thời đại bắt buộc đã xây dựng một ý thức hệ độc lập. Cuộc ra đi của nhị ông cháu nhà Trần (Thái Tông và Nhân Tông) là minh chứng hùng hồn mang đến việc xây dựng trên. Nếu cuộc ra đi của Thái Tông ko trọn vẹn, thì cuộc ra đi của Nhân Tông đã toại nguyện và nhà vua đã tiến hành công việc này một cách vững chắc, toàn diện và triệt để. Kết quả là Thiền phái Trúc Lâm tên Tử ra đời với hệ thống tổ chức và kinh sách như một tôn giáo độc lập.Tìm hiểu hệ thống Thiền học Trúc Lâm yên ổn Tử ko chỉ đối kháng thuần là tìm hiểu giáo chỉ của ba vị Tổ: Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền quang quẻ mà còn phải tìm hiểu tư tưởng cùng vai trò đóng góp của hai nhân vật trước đó: Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung (13).Trước hết, hãy tìm hiểu ý nghĩa của việc thành lập Thiền phái này. Về vấn đề này, có lẽ chưa có ai phân tích sâu sắc và xác đáng như Nguyễn Duy Hinh, đại để ông mang lại rằng, Thiền tông với lý thuyết duy trung tâm khách quan, với quan lại điểm từ bi bác ái, với tinh thần rộng mở phóng khoáng, và khả năng dung hợp nhiều tư tưởng khác cần tỏ ra có khả năng ưu việt hơn so với hệ bốn tưởng khác vào việc truyền bá rộng rãi. Họ Trần buộc phải lựa chọn Thiền tông làm ý thức hệ tiêu biểu tuy nhiên cũng cần cầm đổi chút ít nội dung đến phù hợp và đạt những mục đích mà xã hội yêu thương cầu. Theo Nguyễn Duy Hinh, việc nhà trằn lập ra Thiền phái mới nhằm bốn mục đích:1. Biểu lộ tính độc lập dân tộc.2. Vậy đổi phần nội dung tiêu cực và thân ngoại.3. Ý đồ thống nhất ý thức hệ.4. Tự khoác cho mình chiếc áo của một tôn giáo mới (14).Với những mục đích trên, chiếc Thiền Trúc Lâm đã có những thành tựu rõ rệt. Bản thân và hành trạng của vị sơ tổ Trúc Lâm đã là minh chứng mang lại một giáo chủ của Thiền phái mới này. Trần Nhân Tông được vinh danh là Phật hoàng với những huyền thoại: Phật giáng sinh (Biến Chiếu Tôn), Thần Tiên giáng trần (Kim Phật Kim Tiên đồng tử). Thái tử Khâm - Trần Nhân Tông một vị vua, một giáo chủ, một vị anh hùng. Xưng là Phật vì sáng lập ra tôn giáo mới, gọi là Tiên vì phong cách tiêu dao kiểu Lão - Trang. Nói là bạn anh hùng vì đã chỉ huy đánh rã giặc Nguyên Mông hung hãn. Cuộc đời hành đạo của Trần Nhân Tông chẳng khác nào ông phật Thích Ca. Trần Nhân Tông bỏ ngôi vào lặng Tử sơn, tắm ở Ngự Dội, thiền định dưới gốc cây tùng như thái tử Tất Đạt Đa, từ giã cung vàng điện ngọc vào Tuyết tô (Hymalaya), tắm ở sông Ni Liên Thuyền Na, ngồi thiền định dưới gốc cây Tất Bát La (Bồ Đề). Sau thời điểm đắc đạo, Trần Nhân Tông dắt nhì môn đệ là Pháp Loa, Huyền quang đi thuyết pháp ở Sùng Nghiêm, khôn xiết Loại như đức Thích Ca dẫn dắt ngài Ca Diếp và A Nan Đà đi thuyết pháp lúc ở Lộc Uyển, lúc ở vương Xá thành, ở vườn cây của Kỳ Đà, của trưởng giả Cấp Cô Độc v.v.. Nếu đức Thích Ca nhập diệt trong tư thế nằm nghiêng, tay phải gối đầu, tay trái duỗi thẳng theo thân (tư thế nhập Niết bàn) thì Nhân Tông hoá theo kiểu sư tử ngoạ. Tóm lại, để trở thành giáo chủ mới, Nhân Tông đã mô rộp lại việc làm của tiên phật Thích Ca ngày xưa. Không phải ngẫu nhiên mà Nhân Tông đến xây dựng hệ thống kiến trúc yên ổn Tử thành ba bậc chính: Giải Oan, Vân Yên, Vân Tiêu và trên cùng là bia chữ Phật hòa nhập trong không gian bát ngát để tượng trưng cho tía cõi: Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới và bia chữ Phật kia tượng trưng mang đến Giải thoát. Đây chính là biểu hiện quan liêu niệm của Thiền phái Trúc Lâm (15). Tất cả là cơ sở để có thể tìm hiểu tư tưởng của Thiền phái này. Điều thuận lợi là các vị tổ Trúc Lâm và số đông vị đặt nền tang về tứ tưởng đến Thiền phái hầu như có trước tác để lại, dù đã bị mất cũng tương đối nhiều, hiện chỉ còn một số, bắt buộc qua đó ta cũng có thể hiểu được bốn tưởng của Thiền phái Trúc Lâm tương đối có hệ thống. Thư tịch cổ cho biết Trần Thái Tông viết khá nhiều, nhưng mà hiện chỉ với Khoá lỗi lục, Thiền tông chỉ nam tự, Lục thì sám hối hận khoa nghi, Phổ thuyết, Luận văn, Ngữ lục, Niêm tụng kệ (tất cả được fan đời sau tự khắc in vào Khóa hư lục) và một ít bài bác thơ; Tuệ Trung Thượng sĩ thì còn thơ, kệ cùng Thượng sĩ ngữ lục (Đối cơ, tụng cổ); Trần Nhân Tông soạn Thạch Thất mỵ ngữ, Thiền lâm thiết chuỷ ngữ lục, Tăng già toái sự, Đại mùi hương Hải ấn thi tập, Cư trần lạc đao phú, Đắc thú lâm tuyền đạo ca; tuy thế hiện chỉ từ một bài phú, một bài xích ca cùng ngữ lục Sư đệ vấn đáp, bài bác văn Thượng Sĩ hành trạng, cùng một trong những bài kệ, 32 bài xích thơ, một thư từ; Pháp Loa viết Đoạn sách lục, Tham Thiền chỉ yếu, hiện chỉ với một bài kệ, một bài tán, một bài văn Khuyến xuất gia tiến đạo ngôn, một ngữ lục Trúc Lâm đại tôn đưa thượng tọa thính sư thị chúng; Huyền quang quẻ trước tác Ngọc tiên tập, Vịnh Vân lặng tự phú và soạn Phổ Tuệ ngữ lục, hiện chỉ từ một bài phú cùng 24 bài bác thơ.Xét nội dung triết lý tứ tưởng phái Trúc Lâm chủ yếu chúng tôi khảo sát Khoá hư lục và Thượng sĩ ngữ lục, cùng Thiền tông chỉ phái nam tự vì qua một số tác phẩm còn lại của tía vị Tổ Trúc Lâm, về nội dung cơ bản là nhất trí với nhị vị có công đầu trong việc để nền móng ý kiến tư tưởng và việc hình thành Thiền phái này.Khoá hư lục là một bản tởm Phật đời Trần dùng để đọc tụng sáu lần trong một ngày đêm, mỗi lần phát âm tụng nhằm giữ một vào sáu căn mang lại thanh tịnh. Đây là phần thực dụng của kinh. Mặt cạnh phần lý thuyết trình bày quan tiền niệm của Thiền phái về vấn đề cơ bản của đạo Phật như Phật, Tâm, Thiền, Nhân sinh, tại sao của mọi khổ nhức và Giải thoát. Nếu Thiền tông truyền thống thường thực hành Thiền định chứ không chú trọng Niệm, thì Thiền Trúc Lâm đã kết hợp cả hai: Thiền định và niệm Phật. Một sự kết hợp giữa Tịnh độ tông và Thiền tông mà chúng tôi đã nêu ở trước. Thiền Trúc Lâm ít nhiều còn có trộn tạp màu sắc Đạo giáo, chịu ảnh hưởng tứ tưởng Lão - Trang. Một số bài kệ, bài thơ của Tuệ Trung như Sinh tử nhàn nhi dĩ, Phóng cuồng dìm vài đoạn trong Khoá hư lục, Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là những dẫn chứng mang đến nhận định trên.Còn đó là sự kết hợp tư tưởng Lão – Trang vào con bạn thiền sư với thú tiêu dao, từ tại, hòa đồng vạn vật thiên nhiên chẳng khác nào một đạo sĩ ung dung, xem đời như giấc mộng:- nghịch nước biếc, ẩn non xanh, trần thế có nhiều người đắc ý,Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chú tri âm. (16)- Núi hoang rừng quạnh/ ấy là chỗ dật sĩ tiêu dao,Chiền vắng am thanh/chỉn thực cảnh đạo nhân du hý. (17)- Y cẩu phù vân đổi thay thái đa/ Du du đô phó mộng phái mạnh kha.(Cuộc đời như đám mây nổi luôn thay đổi nhiều vẻ/Mơ màng đành phó đến giấc mộng nam giới kha.) (18)Có lẽ, cù về với thiên nhiên là cách để các vị xa lánh cõi dời, để diệt dục, giúp cho tâm thanh tịnh nhưng mà hành Thiền, chứ ko ngoài mục đích nào khác.Bàn về Phật, Trúc Lâm chủ trương “Phật không có vào núi mà chỉ có vào lòng.” (Thiền tông chỉ phái nam tự); nếu “Lòng lặng lẽ mà biết, chính là Phật vậy.” (Thiền tông chỉ phái nam tự). Trúc Lâm đã kế thừa ý kiến của Huệ Năng khi cho rằng “Phật và Thánh vốn ko khác gì nhau” và bổ sung thêm, mặc dù đi hai bé đường khác nhau tuy vậy cả nhị cùng đưa nhỏ người đến một mục đích và chủ trương Phật, Thánh phân công hợp tác (Thiền tông chỉ nam tự) (19).Như vậy, theo Trúc Lâm, Phật chính là ta, là tâm. Một quan niệm đồng nhất trong không nên biệt. Nhờ quan điểm này mà Thiền phái Trúc Lâm gần gũi với tư tường Thiền nguyên thuỷ hơn, dĩ nhiên, Trúc Lâm cũng có những kiến giải của riêng mình. Trằn Nhân Tông đã phát biểu:- Chỉn bụt là lòng, sá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ.- Vậy mới hay: Bụt ở cùng nhà, chẳng phải tìm xa.- Nhân khuy bản ta cần tìm Bụt; đến cóc xuất xắc chỉn Bụt là ta. (20)Phật là tâm. Tâm là một cái gì trừu tượng như Phật tính: “Tâm vương vãi vô tướng hựu vô hình” (21).Trúc Lâm chủ trương muốn hiểu rõ trung ương phải ngồi thiền. Ngôi thiền để tĩnh tâm, phòng ác hướng thiện. Trúc Lâm ko chọn con đường “Quán bích toạ thiền” mà chủ trương “Niệm Phật, thụ giới và toạ Thiền”. Niệm Phật là cách tự giáo dục, tự ức chế để giữ miệng và vai trung phong thanh tịnh. Thụ giới là cách răn giữ bản thân theo giới luật nhằm để cho thân vào sạch và ko làm điều ác. Niệm Phật, thụ giới, toạ thiền là cách giữ cho thân, khẩu, trọng điểm của người học đạo ko thể làm, nói, nghĩ mang đến điều ác. Điều ác không sinh tức điều thiện phát khởi. Có lẽ ví thế mà Trần Thái Tông soạn Khoá lỗi lục để người tu Phật tụng niệm. Khoá lỗi lục còn trình bày về năm giới răn của Phật mà người tu hành phải triệt để tuân theo. Có điều, qua việc trình bày giới luật, Trúc Lâm đã biến nó thành những bài học luân lý rộng là giáo lý nhà Phật, với mục đích nhằm ổn định trật xã hội lúc bấy giờ. Khoá hỏng lục khuyên răn con người không được tham lam của cải, sắc đẹp, rượu nồng, thịt béo, sự nghiệp phú quý. Bởi lòng tham đó mà dẫn dắt fan ta đi đến trộm cướp, bè phái, coi thường vua, ghét cha, nhạo Tăng, chửi Phật… Khoá hư lục còn kêu gọi con người cần làm việc thiện, bố thí đến kẻ nghèo, yêu thích người khác, tôn trọng phép nước, kính thân phụ thờ vua… Đây chính là cốt lõi nhập chũm của đạo Thiền Trúc Lâm.Thiền Trúc Lâm cũng phát biểu quan niệm về nhân sinh. Họ coi chuyện sống chết là thường tình và chấp nhận cuộc sống một cách khách quan, bài kệ Khuyến chúng của Trần Thái Tông: Sinh lão bệnh tử, Lý đưa ra thường nhiên” (22); bài kệ của è cổ Nhân Tông đọc mang đến Pháp Loa nghe trước lúc tịch diệt: Nhất thiết pháp bất sinh, Nhất thiết pháp bất diệt. (23) đã chứng minh cho quan niệm này. Chính Tuệ Trung, người thầy của Nhân Tông, người có công đầu trong việc lập Thiền phái Trúc Lâm đã phát biểu: “Phù sinh tử, lý chi thường nhiên, an đắc bi luyến, ưu ngô chân dã.” (Sông chết là lẽ thường, có tác dụng gì đề xuất xót yêu đương quyến luyến có tác dụng rối chân tính của ta ? – Thượng sĩ hành trạng) (24).Cuộc sống là một thực thể tồn tại khách quan ko thể phủ nhận đề nghị thiền sư phái Trúc Lâm đều dửng dưng trước cái chết, xem cuộc đời là vô thường. Chết chỉ là một chặng đường khác. Như vậy, Thiền phái Trúc Lâm tiếp thu quan lại niệm nhân sinh của Đại Đại thừa Phật giáo. Họ chấp nhận cuộc sống, cái chết mà ko luyến tiếc. Những vị quan niệm ko có gì sinh ra hay mất đi cần làm gì có việc đi và đến. Đó là quan liêu niệm “thân ảo ảnh chẳng khác phù vân”, “Pháp thân thường trú, phổ mãn thái hư” của đệ nhất tổ Trúc L:âm Trần Nhân Tông. Các vị mang lại rằng cái thân đang tồn tại là bởi vì dục. Diệt được dục tức thoát khỏi sinh tử. Quan tiền niệm bên trên đã phản ánh một nhân sinh quan liêu tương đối, ko sa vào hai cực, ko tham sống sợ chết một cách yếu đuối. Phải chăng vì hào khí thời đại, vì cuộc đấu tranh sinh tử của dân tộc thời Lý - Trần đã ảnh hưởng tới nhân sinh quan liêu này? Có lẽ vì thế mà phái Trúc Lâm cũng như các Thiền phái khác thời Lý - Trần lại gần gũi với đời, trở về với cuộc sống trần thế hơn.Tóm lại, bởi yêu cầu thời đại, Phật học thuyết – è nói chung, Phật giáo Thiền Trúc Lâm nói riêng đã Đại Việt hoá, dân tộc hoá tư tưởng Thiền đạo và sáng tạo thêm một số tư tưởng cụ thể, sắc bén, thích hợp với hoàn cảnh Đại Việt lúc bấy giờ, có tác dụng nên bạn dạng sắc rất riêng của dân tộc, phần nào đáp ứng được yêu cầu của thời đại lịch sử vẻ vang xã hội. Bên cạnh tôn chỉ thông thường của Thiền là phá chấp, đốn ngộ, trung khu truyền, thì Phật giáo Thiền tông thời Lý – Trần còn có những đường nét riêng như gửi Phật Thiền vào cuộc sống, phục vụ đất nước và nhân dân, tu chăm sóc nhân cách nhỏ người. Thiền dung phù hợp với những yếu hèn tố tích cực và lành mạnh của Nho, của Lão - Trang để giúp đỡ con người trở nên tân tiến toàn diện, tương xứng với sự phát triển của đất nước. Phật giáo Thiền tông Lý – trằn còn kết phù hợp với Tịnh độ tông cùng Mật tông thuộc tín ngưỡng dân gian để tương xứng với trong thực tiễn và mang tính chất đại chúng. Riêng quan liêu điểm tứ tưởng của Thiền Trúc Lâm - một Phật giáo độc nhất tông đã tác động nhiều đến xã hội, giúp con tín đồ ta rèn luyện luân lý đạo đức rộng là tôn giáo, góp phần duy trì bất biến xã hội Đại Việt thời đó, để làm cho chiến công oanh liệt với tía lần đại thắng Nguyên Mông. Đồng thời, Phật giáo hồi này đang đào tạo đề xuất những thiền sư chổ chính giữa hướng về Phật mà lòng vẫn gắn bó với đời, cùng với cuộc sống trằn thế. Đó đó là “cư è cổ lạc đạo”. Nói theo cách khác đây là một Phật giáo đầy sức sống mà ý thức chung được Đệ độc nhất tổ Trúc Lâm Phật hoàng nai lưng Nhân Tông đã đúc kết trong bài kệ sống cuối bài bác phú Cư nai lưng lạc đạo:Cư trằn lạc đạo thả tùy duyên,Cơ tác xan hề, khốn tắc miên.Gia trung hữu bảo, hưu trung bình mịch,Đối cảnh vô tâm, mạc vấn Thiền. (25)(Cõi nai lưng vui đạo, hãy tùy duyên/Đói cứ nạp năng lượng no, mệt nhọc ngủ liền.

Báu sẵn rong nhà, thôi ngoài kiếm/Vô trọng tâm trước cảnh, hỏi bỏ ra Thiền,)./.Chú thích:

(1) Nguyễn Lang, Việt nam giới Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb Lá Bối, Paris; Nxb Lá Bối, sử dụng Gòn, 1972; Nxb KHXH, Hà Nội, 1994 tái bản, trang 24. (2) Xin xem : - Nguyễn Lang, tài liệu đã dẫn. - Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Lịch sử Phật giáo Việt nam , Viện Triết học, Hà Nội, 1988.(3) Nguyễn Lang, tài liệu đã dẫn, trang 138-139.(4) Nguyễn Duy Hinh, Ý nghĩa xã hội của phái Trúc Lâm thời Trần, trong sách: Tìm hiểu xã hội Việt nam giới thời Lý Trần của nhiểu tác giả, bởi Viện Sử học công ty biên, Nxb KHXH, H.1981, tr. 646.(5) Xin xem: - Tầm Vu, search hiểu điểm sáng Phật giáo việt nam trong thời đại lý phân phối Trần qua các tác phẩm văn học, Tạp chí Văn học số 2. 1972, trang 47 - 60. - Kiều Thu Hoạch, tìm hiểu thơ văn những nhà sư thời Lý Trần, Tạp chí Văn học số 6, 1965, trang 64.(6) Viện Văn học tập (biên soạn), Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 535.(7) Viện Văn học (biên soạn), Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 361.(8) Viện Văn học tập (biên soạn), Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 514.(9) Viện Văn học (biên soạn), Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 475.(10) Kiều Thu Hoạch, tìm hiểu thơ văn những nhà sư thời Lý Trần, Tạp chí Văn học số 6, 1965, trang 64.(11) Hà Văn Tấn, Từ một cột gớm Phật năm 973 new phát hiện ở Hoa Lư, Ninh Bình, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 70, tháng 7. 1965, trang 39 - 50.(12) dẫn lại, Nguyễn Hữu Lợi, miếu Một Cột với ý thức Phật giáo việt nam thời Lý, Tạp chí tứ tưởng, sử dụng Gòn, số 1 – 1974, trang 80 - 82. (13) Về tên thật của Tuệ Trung Thượng sĩ trong một thời hạn rất dài, từ cụ kỷ XVII, XVIII sang trọng nửa thời điểm cuối thế kỷ XX, những nhà nghiên cứu đều mang đến Tuệ Trung là nai lưng Quốc Tảng. Mãi mang lại năm 1972, qua nhiều năm khảo cứu, Nguyễn Lang say mê Nhất Hạnh lần đầu tiên đã khẳng định tên thật của Tuệ Trung là trần Tung, trong sách Việt nam giới Phật giáo sử luận, tập 1, Nxb Lá Bối, Paris; Nxb Lá Bối, sài Gòn, 1972. Rồi sau đó, năm 1977, lần trang bị hai, trên tạp chí Văn học, Nguyễn Huệ bỏ ra tiếp tục khẳng định việc này sống trong bài “Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý - Trần”, Tạp chí Văn học số 4 - 1977, trang 116-135. (14) Nguyễn Duy Hinh, tài liệu đã dẫn, tr 649-650. (15) Xin xem: - Nguyễn Duy Hinh, im Tử - Vua trằn - Trúc Lâm, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 2 - 1977, trang 10 - 21. - Viện Sử học, các tác giả, Tìm hiểu xã hội Việt phái nam thời Lý - Trần, Nxb KHXH, HN, 1981.(16) trần Nhân Tông, Cư Trần Lạc đạo phú, trong sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989, trang 505.(17) trần Nhân Tông, Cư Trần Lạc đạo phú, vào sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989, trang 505.(18) Tuệ Trung Thượng sĩ, chũm thái hư huyễn, trong sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989, trang 250.(19) nai lưng Thái Tông, Thiền tông chỉ nam tự, trong sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989, trang 28 - 29.(20) è cổ Nhân Tông, Cư Trần Lạc đạo phú, trong sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989, trang 505.(21) Tuệ Trung Thượng sĩ, vai trung phong vương, vào sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989, trang 237.(22) trằn Thái Tông, Kệ Khuyến chúng, trong sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989.(23) nai lưng Nhân Tông, Kệ Tịch diệt, vào sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989.(24) trần Nhân Tông, Thượng sĩ hành trạng, vào sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989, trang 544.(25) trằn Nhân Tông, Cư è cổ lạc đạo phú, vào sách Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển thượng, Nxb KHXH, HN, 1989, trang 510.Gò vấp -TP hcm Bố chính, mon 6/2010.PGS.TS. NGUYỄN CÔNG LÝ(Khoa Văn học cùng Ngôn ngữ,Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQG TP. HCM)